Kinh nghiệm dùng dứa gai chữa bệnh

Dứa gai, tên khác là dứa dại, dứa gỗ... là một cây nhỏ, cao 1 - 2m. Thân có rễ phụ dài. Lá mọc tập trung ở ngọn, hình dải hẹp, cứng, mép và gân giữa có gai cứng. Cụm hoa gồm hoa đực và hoa cái. Quả to khi chín màu vàng.

Nhiều bộ phận của cây dứa gai được sử dụng làm thuốc theo kinh nghiệm dân gian:

Rễ dứa: thu hái quanh năm. Loại rễ non chưa bám đất càng tốt, đào về rửa sạch, thái mỏng, phơi khô. Khi dùng lấy 8g rễ (nướng qua) phối hợp với vỏ cây đại (sao vàng), rễ si, rễ cau non, hương nhu, tía tô, hoắc hương mỗi vị 8g; hậu phác 12g; thái nhỏ; sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần, chữa phù thũng.

Chữa chứng tiểu dắt, tiểu ít, nước tiểu vàng đục, phù thận: rễ dứa gai 200g, râu ngô 150g, củ sả 50g, trấu gạo nếp (sao thơm) 50g, nõn tre 25g, cam thảo dây 25g. Tất cả nấu với 2 lít nước cho sôi kỹ trong 30 phút, đem lọc, thêm đường, uống trong ngày. Người lớn mỗi lần 200 - 300ml; trẻ em tùy tuổi, 100 - 150ml. Ngày 2 - 3 lần. Một đợt điều trị là 5 ngày. Nghỉ 3 ngày, rồi tiếp tục đợt nữa cho khỏi hẳn.

Để chữa tiểu ra cát sỏi, lấy rễ dứa gai, mộc thông, cỏ tháp bút, sinh địa, mỗi vị 20g, thái nhỏ, sắc uống ngày 3 - 5 lần với bột hoạt thạch 10g.

Dùng ngoài: rễ dứa gai (loại rễ non), lá xoan non, ngải cứu, dây tơ hồng, vỏ cây gạo, củ nghệ, mỗi thứ một nắm nhỏ giã nát, trộn với lòng trắng trứng gà, đắp làm thuốc bó gãy xương và chữa lòi dom.

Đọt non: thu hái vào mùa xuân, dùng tươi hay sấy khô, được dùng trong những trường hợp sau:

Chữa sỏi thận: đọt non, dứa gai 20g, ngải cứu 20g, cỏ bợ 30g, đường phèn 10g, tất cả rửa sạch, thái nhỏ, giã nát, thêm nước rồi gạn uống.

Chữa tiểu dắt, tiểu buốt có máu: đọt non dứa gai 20g, mầm rễ cỏ gừng 20g. Sắc uống trong ngày.

Chữa kinh phong trẻ em: đọt non dứa gai 12g, lá chua me, lá xương sông, búp mít mật, cỏ nhọ nồi, mỗi thứ 8g, nhân hạt đào 5 cái. Tất cả giã nhỏ hòa với một chén nước đun sôi để nguội, gạn lấy nước trong, thêm ít đường, uống cách 2 giờ một lần. Cứ mỗi tuổi uống một thìa cà phê.

Dùng ngoài: đọt non, dứa gai giã với lá đinh hương, đắp chữa đinh râu rất tốt.

Quả dứa: dùng tươi hoặc phơi khô.

Chữa xơ gan cổ chướng: quả dứa gai 200g, thân cây ráy gai 200g, vỏ cây quao nước, vỏ cây vọng cách, lá trâm bầu, lá cối xay, rễ cỏ xước, mỗi vị 50g. Có thể thêm 50g cỏ hàn the hoặc 50g cỏ tranh. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước, còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày...

Để chữa viêm gan mạn tính: quả dứa gai 100g, chó đẻ răng cưa 50g, sắc uống ngày một thang.

DS. Đỗ Huy Bích

Dưa leo nhiều công dụng

Ăn nhiều dưa leo gây lạnh bụng, đầy bụng, không tiêu, gây hư nhiệt. Dưa leo hơi khó tiêu nếu không nhai kỹ. Tránh ăn lúc trời mưa ẩm thấp, người mới ốm dậy. Trẻ em không nên lạm dụng dưa leo sống.

Thành phần trong 100g dưa leo như sau: nước (95%), đạm (0,8%), đường (3%), chất xơ (0,7%), canxi (23mg), phốt pho (27mg), sắt (1mg), vitamin A (0,3mg), vitamin B1 (0,03mg), vitamin B2 (0,04mg), vitamin PP (0,1mg), vitamin C (5mg). Ngoài ra còn có selen, lưu huỳnh, mangan, iod, kali, chất nhầy. 100g dưa leo cung cấp 16 calo.

Quả dưa nhỏ, vỏ càng xanh càng chứa hàm lượng biotin cao (chất bổ dưỡng da), hàm lượng vitamin C và selen cao hơn nhiều so với quả to. Vitamin C và selen tăng cường hệ miễn dịch, phòng chống bệnh tật. Vì vậy, các nhà khoa học khuyến cáo trong trồng trọt nên tăng số lượng quả, hơn là tạo quả to. Dưa leo thuôn dài dưới 20cm, cuống nhỏ có chất lượng tốt nhất.

Theo Tây y, dưa leo có tác dụng lọc máu, lợi tiểu, bài sỏi, hòa tan axít uric và muối urat, phòng chống bệnh thống phong (gút), an thần, hạ sốt, chữa một số bệnh ngoài da như: nếp nhăn, nứt nẻ, da mốc, tàn nhang, da nhờn. Để nuôi dưỡng da mặt, nên đắp dưa leo tươi. Vì giúp da mịn màng nhờ có chất “dung môi sinh vật” đẩy mạnh quá trình trao đổi chất, làm giãn mao mạch trong da dẫn đến tuần hoàn máu được thuận lợi.

Dưa leo nhiều công dụngTác dụng dưỡng da, chống khô da

Thức ăn khai vị: dưa leo thái lát mỏng. Gừng giã nhuyễn, cho nước sôi vào, chắt lấy nước gừng trộn với dưa leo. Còn dùng cho người sợ dưa leo lạnh gây đầy bụng.

Nước dưa leo: dưa leo 1 quả, táo 1 quả, nước chanh 20g, mật ong 20g, cà rốt 1 củ. Ép các loại củ quả rồi cho mật ong, nước chanh trộn đều. Món ăn nhiều sinh tố này bồi bổ sức khỏe mùa hè, chống mỏi mệt, uể oải.

Trẻ em bị lỵ mùa hè, do thấp nhiệt: 10 quả dưa leo non thái nhỏ, nấu với mật mía. Hoặc dưa leo muối nấu lấy nước, nấu cháo cho trẻ ăn.

Canh cho bệnh nhân bị thống phong (gút): dưa leo một quả, bỏ ruột thái mỏng, mộc nhĩ một nắm, muối 2,5g, dầu vừng 25g. Mỡ và xì dầu một ít vừa đủ. Xào mộc nhĩ trước, cho dưa leo sau, nêm gia vị.

Cháo thuốc chữa động kinh: lấy 50g dưa leo non đun lấy nước, cho 50g tiểu mạch vào, nấu cháo nhừ, thêm 15g đường phèn.

Lợi tiểu, tiêu phù: dưa leo thái lát, nấu sôi với ít dấm, ăn cả cái lẫn nước.

Súp dưa leo muối: dưa leo muối 200g thái lựu, thịt bò nạc 200g thái lựu, tỏi 3g, hành 3g, cần tây 10 gam, dầu ô-liu 5g, gia vị chanh tiêu. Món ăn ngon mát vào mùa hè.

Dưa leo làm mỹ phẩm: lấy 2 lát dưa leo nghiền nhuyễn, trộn thêm 1 lòng đỏ trứng cút, 1 thìa dầu ăn, 1 thìa mật ong, trộn đều thành hỗn hợp mịn dẻo, cho vào tủ lạnh nửa giờ. Trước khi đi ngủ, xoa lên mặt để 30 phút đến 1 giờ thì rửa sạch và để cho khô trước khi nằm. Tác dụng dưỡng da, chống khô da.

Quả dưa nhỏ, vỏ càng xanh càng chứa hàm lượng biotin, hàm lượng vitamin C và selen cao hơn nhiều so với quả to

Chữa hôi miệng do tỳ vị nhiệt: dưa leo gọt lấy vỏ nấu nước uống hàng ngày.

Chữa xơ vữa động mạch:

- Dưa leo 1 trái, cà chua 1 trái. Rửa sạch, xắt lát, thêm muối và đường trắng, dấm, trộn gỏi thì dùng.

- Dưa leo, đậu hủ ky ngâm nước 200g, bột năng, dầu ăn, hành hoa, gừng tươi sợi, tỏi lát, muối, bột nêm, nước tương, dấm, nước dùng với mỗi thứ vừa đủ. Đậu hủ ky cắt lát dài 4cm cho vào chén, phết lên bột năng, dưa leo xắt lát dài 3cm, rộng 1cm. Đổ dầu vào chảo, cho nóng, thêm đậu hủ ky chiên, vớt ra cho ráo dầu. Chừa dầu trong chảo, thêm gừng hành tỏi phi thơm, đổ dưa leo xào đến gần chín, thêm đậu hủ ky, thêm nước dùng, nêm muối bột nêm nước tương dấm, sau khi nấu sôi dùng bột năng làm xốt, rưới dầu mè thì dùng.

Chữa cao mỡ máu:

- Dưa leo 250g, nấm mèo đen ngâm nước 50g, dầu ăn, muối, hành hoa, gừng băm với mỗi thứ vừa đủ. Dưa leo xắt lát. Bắc chảo lên bếp, đổ dầu, hành, gừng phi thơm, thêm dua leo, nấm mèo đen đảo nhanh, thêm muối xào chín.

- Dưa leo 500g, đường trắng, dầu mè, muối, dấm trắng với mỗi thứ vừa đủ. Dưa leo móc bỏ ruột, xắt lát dài 5cm, rộng 2cm, cho vào tô, ướp muối 5 phút, chắt nước ra. Bắc chảo lên bếp, đổ nước dưa leo vào, đường, đun sôi cho đặc, thêm dấm, rưới lên dưa leo, ngâm 1 giờ thì rưới dầu mè.

Dưa leo nhiều công dụng

Chữa bệnh đái tháo đường:

- Dưa leo 250g, tỏi băm 30g, nước tương, dấm, dầu mè với mỗi thứ vừa đủ. Dưa leo xắt lát, chứa trong thau. Tỏi băm, nước tương, dấm, dầu mè làm xốt, trộn vào dưa leo làm gỏi.

- Dưa leo 500g, sữa đậu nành 250ml, tỏi băm vừa đủ. Dưa leo rửa sạch vỏ, ngâm trong nước ấm vài phút, xắt nhuyễn, vắt nước cốt, gạn lọc qua vải sạch, lấy nước. Sữa đậu nành đổ vào nồi đất, đun sôi bằng lửa vừa, trộn vào nước dưa leo, thêm tỏi băm một ít trộn đều. Dùng sáng và chiều.

Chữa tàn nhang:

Dưa leo 1 quả, xắt nhỏ, ép lấy nước, trộn với sữa chua thành kem bôi mặt. Mỗi lần 20 phút, 2 lần/ngày.

Chữa da mặt sạm, thô do bôi mỹ phẩm “dỏm”, ra nắng nhiều:

Dưa leo 2 quả, mướp 1 quả, xắt miếng ép lấy nước, cho mật ong vừa đủ thành một thức uống ngọt. Bã nhào nhuyễn với đậu phụ thành thuốc đắp 20 phút thì rửa sạch. Cách ngày một lần.

Giảm béo phì:

- Hàng ngày lấy khoảng 120g dưa leo tươi xắt miếng, trộn dầu dấm, gia vị để ăn như một món salat. Có thể kèm với giá đậu xanh sống, cà chua chín tươi sống, củ cải.

- Dưa leo 200g, bí đao 200g, sơn tra 50g, vỏ quýt tươi 30g, mật ong vừa đủ. Dưa, bí đao, sơn tra bỏ hạt, vỏ quýt xắt nhỏ. Ép lấy nước, hoà mật ong uống hàng ngày.

BS. NGÔ VĂN TUẤN

Mã đề nước hạ sốt

Mã đề nước còn có tên gọi khác là hẹ nước, vợi, là cây thủy sinh ở các ao, hồ nước nông, kênh rạch, bờ suối, ruộng trũng có nước quanh năm. Trong Đông y, vị thuốc từ mã đề nước gọi là trạch tả. Trạch tả có vị ngọt, tính hàn, vào các kinh thận, bàng quang, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi niệu, long đờm...

Trạch tả thuộc cây thân thảo mọc dưới ao, hồ, ruộng nước, cây cao từ 0,5 - 1m, thân củ trắng hình cầu hay hình con quay có đường kính tới 6cm màu trắng mọc thành cụm, có nhiều rễ sợi. Lá có cuống dài, bẹ to mọc ở gốc hình trứng thuôn hay lưỡi mác, phía cuống hơi hẹp lại. Tán hoa ở đỉnh, nhiều hoa, hoa có cuống dài, lưỡng tính, 3 lá đài mầu lục, 3 cánh hoa mầu trắng hay hơi hồng, 6 bì, nhiều tâm bì rời nhau xếp xoắn ốc. Mùa ra hoa vào tháng 4 - 5. Quả bế chín vào tháng 6 - 7. Bộ phận dùng làm thuốc của trạch tả là thân rễ, thu hái vào mùa thu là tốt nhất, cạo hết rễ, rửa sạch, phơi hoặc sấy khô.

Chữa phù thũng do thận: Lá trạch tả 30g, thân cây sậy 100g, râu ngô 100g. Sắc với 3 bát nước, còn 1 bát chia uống hai lần trong ngày. Uống sau bữa ăn trưa và tối. Dùng trong 7-10 ngày.

Hoặc trạch tả, bạch phục linh, trư linh, hạt mã đề mỗi vị 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

Chữa ho do viêm họng: Lá trạch tả 30g, lá húng chanh 30g, gừng tươi 5g. Sắc khoảng 300ml nước còn 50ml. Uống trong ngày, nên uống khi thuốc còn ấm. Uống trong 5 ngày.

Chữa mụn nhọt sưng đau (chưa mưng mủ): Lá trạch tả tươi, lá cây lạc địa sinh căn, mỗi vị 15g. Rửa sạch, để ráo, giã nát đắp nơi mụn nhọt sưng đau. Ngày đắp 2 lần. Thực hiện trong 2 ngày.

Chữa chứng hoa mắt, chóng mặt do thiếu máu: Trạch tả 12g, sinh địa 15g, long đởm thảo, sơn chi tử, hoàng cầm, sài hồ, mẫu đơn bì, tri mẫu, cúc hoa, mỗi vị 10g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Hoặc trạch tả 15g, bạch truật 6g, cúc hoa 12g. Sắc với 3 bát nước còn 1 bát, uống trong ngày. Dùng trong 7-10 ngày.

Chữa bỏng da thể nhẹ (vết bỏng nhỏ và nông): Lá trạch tả tươi, lá cây lạc địa sinh căn, mỗi vị 30g, rửa sạch, giã nát đắp hoặc chườm nhẹ nơi có vết bỏng. Ngày làm 2 lần. Bài thuốc này giúp giảm đau và nhanh hồi phục khi bị bỏng.

Giúp hạ sốt do cảm nóng: Lá trạch tả 20g, cỏ mần trầu 25g, lá tre 30g. Các vị thuốc trên đem sắc với 3 bát nước còn 1 bát. Uống trong ngày khi thuốc còn ấm. Dùng trong 2 ngày.

Hỗ trợ điều trị gan nhiễm mỡ: Trạch tả 20g, hà thủ ô (sống), thảo quyết minh, đan sâm, hoàng kỳ, mỗi vị 15g, sơn tra (sống) 30g, hổ trương 15g, hà diệp 15g. Sắc nước uống, ngày 1 thang.

Lương y Nguyễn Hùng

Rong biển làm thuốc

Tảo biển chứa đa dạng các thành phần dinh dưỡng như giàu iod, acid alginic, alginat, chất béo, chất đường, calci, phospho nên được sử dụng làm thực phẩm và làm thuốc.

Bộ phận dùng là toàn cây khô của một số loài tảo biển. Dược liệu sau khi lấy rửa bằng nước ngọt để loại muối và tạp chất; phơi hay sấy khô ở nhiệt độ thấp.

Vị đắng mặn, tính hàn; vào tỳ, can, thận, rong biển có tác dụng nhuyễn kiên tán kết, hoá đàm, lợi thủy tiết nhiệt. Trị viêm sưng hạch, lao hạch, bướu cổ, nấc, phù nề, viêm tràn dịch mào tinh hoàn. Liều dùng: 6 - 10g bằng cách nấu hầm, xào, pha hãm hoặc kết hợp thuốc khác.

Chữa lao hạch cổ:

Bài 1: tảo biển 12g, tằm vôi 6g. Sao chung, nghiền thành bột mịn. Dùng nước sắc bạch mai để làm hoàn. Chia uống 2 lần.

Bài 2: tảo biển 9g, thổ bối mẫu 9g, hương phụ 9g, hạ khô thảo 9g. Sắc uống.

Chữa phì đại tuyến tiền liệt gây bí đái ở người già: tảo biển 10g, xuyên sơn giáp 10g, lệ chi hạch 15g, quất hạch 15g, vương bất lưu hành 15g. Sắc uống.

Chữa lở ngứa ngoài da: tảo biển 16g, liên kiều 12g, ngưu bàng 8g, hạ khô thảo 8g, nga truật 8g, tam lăng 4g, trần bì 2g, bán hạ 2g. Sắc uống chia 2 lần trong ngày.

Món ăn thuốc có rong biển

Canh thịt nấu rong biển: tảo biển 300g, thịt lợn 100g (hoặc đậu phụ 200g). Thịt lợn băm nhỏ; rong biển đem ngâm nước gạo 1 đêm để khử mặn, rửa sạch, nấu chín tái, cắt đoạn, nấu tiếp cho chín nhừ, thêm thịt băm, dấm, gia vị và hành tươi. Dùng cho các trường hợp viêm tinh hoàn, sưng hạch, nấc cục, bướu cổ lành tính.

Vịt hầm rong biển: rong biển 120g, vịt 1 con. Rong biển ngâm rửa, luộc qua, cắt đoạn; vịt làm sạch, chặt miếng, thêm gia vị hầm nhừ. Một tuần ăn 2 lần. Dùng tốt cho người bướu giáp trạng lành tính (bướu cổ do thiếu iode).

Canh rong biển ý dĩ: rong biển 30g, ý dĩ 30g, trứng gà 3 cái. Rong biển ngâm, luộc, thái lát; ý dĩ nấu chín nhừ để sẵn. Cho dầu vào chảo, đun nóng, đập trứng gà vào, khuấy cho chín, cho canh rong biển ý dĩ vào, thêm gia vị thích hợp. Dùng tốt cho người tăng huyết áp, đau tức vùng ngực, người bệnh u bướu.

Rong biển hầm đậu phụ: rong biển 30g, đậu phụ 100g. Rong biển làm như trên, đậu phụ thái miếng; thêm gừng tươi đập giập và gia vị, dầu rán, hầm cách thủy. Ngày ăn 1 lần, liên tục 15 ngày. Dùng tốt cho người viêm xương hạch và đau khớp ở thanh thiếu niên.

Rong biển hầm củ cải: rong biển 300g, củ cải trắng 250g, thanh quả (quả trám) 50g. Củ cải thái lát, thêm gia vị cùng với trám nấu nhừ. Ăn ngày 1 lần, liên tục 7 - 10 ngày. Dùng tốt cho người viêm họng khô, viêm khí phế quản (thể viêm khô mạn tính, ho ít đờm, khi lạnh ẩm viêm họng, ho, đờm nhiều).

Rượu tảo biển: tảo biển 500g thái vụn, ngâm trong 1.000ml rượu, để sau 1 tháng lấy bỏ bã, chia 2 lần sáng, chiều; uống mỗi lần 20 - 30ml. Dùng tốt cho người viêm sưng hạch bạch huyết.

Kiêng kỵ: Người tỳ vị hư hàn dùng thận trọng.

BS. Tiểu Lan

Kha tử chữa bệnh đường ruột và thanh quản

Vỏ quả chứa tanin (acid galic, acid digalic, acid cachougalic, flobaphen...), polysaccharide, alloy, terchebin, chebutin. Trong hạt chứa dầu màu vàng nhạt. Tanin có tác dụng kháng sinh diệt khuẩn mạnh; alloy có hoạt tính kháng virut;  polysaccharide có tác dụng chống viêm họng, giảm ho nhanh như codein.

Theo Đông y, kha tử vị đắng chua chát, tính ôn; vào kinh phế và đại trường. Có tác dụng liễm phế, lợi yết, hạ khí, sáp tràng, chỉ tả. Trị tiêu chảy, lỵ kéo dài, hen suyễn, đau họng mất tiếng, di tinh, mồ hôi trộm. Ở Ấn Độ, kha tử dùng làm thuốc nhuận tràng, lợi tiêu hóa, bổ và phục hồi sức khỏe; thịt quả làm thuốc đánh răng chữa viêm loét lợi và chảy máu; kha tử phối hợp các dược liệu khác trị táo bón, rối loạn tiết niệu, bệnh tim... Liều dùng 6-12g. Chữa khản cổ thì dùng sống. Trị lỵ, tiêu chảy thì nướng cháy vỏ để dùng.

Kha tử trị hen suyễn, đau họng mất tiếng, tiêu chảy mạn tính, lỵ kéo dài, di tinh, mồ hôi trộm.

Kha tử trị hen suyễn, đau họng mất tiếng, tiêu chảy mạn tính, lỵ kéo dài, di tinh, mồ hôi trộm.

Một số bài thuốc trị bệnh có kha tử:

Trị phế hư, ho hen, khản tiếng

Bài 1 - Kha tử thanh âm: kha tử 12g, cát cánh 12g, cam thảo 8g. Sắc uống.

Bài 2: kha tử 4g, đảng sâm 4g. Sắc uống 3 lần trong ngày. Chữa ho lâu ngày.

Bài 3: kha tử 8g, hạt na rừng 8g, hạt tía tô 8g, hạt cải trắng 8g, sâm nam 8g, mạch môn 8g. Sắc uống. Chữa ho có đờm, suyễn thở lâu ngày.

Trị tiêu chảy lâu ngày, lỵ kinh niên, viêm ruột đại tiện ra máu, tiểu ra máu, băng lậu đới hạ

Bài 1: kha tử 12 quả. 6 quả để sống, 6 quả nướng bỏ hạt; sao vàng tán bột. Chữa xích bạch lỵ. Nếu lỵ ra máu, dùng nước sắc cam thảo để chiêu thuốc; nếu lỵ ra đờm thì dùng nước sắc cam thảo chích (tẩm mật sao) để chiêu thuốc.

Bài 2 - Bột kha tử: kha tử lượng vừa đủ, nướng bỏ hạch, tán thành bột mịn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 8g, chiêu bằng nước cơm. Trị lỵ, tiêu chảy lâu ngày làm hao tổn chân khí.

Bài 3 - Chân nhân dưỡng tạng thang: kha tử 6g, đảng sâm 12g, bạch truật 12g, đương quy 12g, gừng nướng 6g, nhục đậu khấu 6g, thạch lựu bì 6g, mộc hương 6g, cam thảo 6g, nhục quế 4g. Sắc uống ngày 1 thang, chữa lỵ mạn tính.

Bài 4 - Kha tử kép: kha tử 12g, hoàng liên 6g, mộc hương 6g. Tán thành bột. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 4-8g, chiêu với nước. Chữa ngộ độc thức ăn do nhiễm khuẩn hay tiêu chảy mạn tính, lỵ mạn tính, đau bụng có sốt.

Bài 5: kha tử 6g, phòng phong 6g, trần bì 6g, mạch nha 6g, cát căn 2g, sơn tra 2g. Sắc uống. Trị trẻ nhỏ bị tiêu chảy.

Lưu ý: Kha tử chữa các bệnh mạn tính nên ho có đờm, tả, lỵ mới mắc không nên dùng. Khi điều trị bệnh đường ruột, liều nhỏ cầm tiêu chảy, nhưng liều lớn lại gây tiêu chảy.

TS. Nguyễn Đức Quang

Thuốc từ quả bầu

Thịt quả bầu vị ngọt, tính hàn, có tác dụng giải nhiệt, trừ độc, mát máu, chữa đái dắt, tiêu sỏi, trừ thủy thũng phù nề, mụn nhọt, tiêu khát (đái tháo đường) tiêu các loại viêm nhiệt ở phổi gây ho, tiêu chảy, tắc mật gây vàng da, tinh hoàn sưng đau... Lá vị ngọt, tính bình; hoa và tua cuốn có tác dụng tắm cho trẻ ngừa bệnh ngoài da (rôm sảy, sởi, mụn nhọt...). Hạt chữa răng đau lung lay, tụt lợi. Lá bầu gói thịt chó để nấu nướng, làm dịu bớt tính nóng của thịt chó.

Quả bầu là món ăn thông dụng trong ngày hè, cũng là vị thuốc phòng trị nhiều bệnh.

Bầu được dùng làm thuốc chữa các bệnh:

Đái dắt: quả bầu 50g, rau má 30g, râu ngô 10g, rễ cỏ tranh 20g. Sắc nước uống.

Bí tiểu tiện: quả bầu 200g, hành củ 5 củ cả lá rễ. Sắc nước uống.

Chữa phù thũng: dùng cả quả (vỏ thịt, hạt) sắc với dấm chua lấy nước uống.

Cổ trướng (báng nước): bầu tươi 50-100g đun nước uống. Hoặc phối hợp với vỏ bầu, vỏ bí đỏ, vỏ dưa hấu, vỏ mướp, nấu nước uống.

Viêm gan vàng da - sỏi thận - tăng huyết áp: bầu tươi 500g, giã nhuyễn, vắt nước trộn với 250g mật ong. Ngày uống 2 lần. Mỗi lần 30-50ml.

Chữa táo bón: quả bầu 50g, khoai lang 50g, đường đỏ 30g. Nấu nước uống 3 lần trong ngày. Nếu không đỡ uống liền 5 ngày.

Trị mụn nhọt tái phát hàng năm vào mùa hè ở trẻ em: trái bầu non nấu canh thịt heo nạc với lát gừng, cho trẻ ăn.

Sưng bìu dái căng bóng: trái bầu tươi nấu nước uống, ngậm rửa.

Thủy thũng phù cả mắt cá chân: vỏ quả bầu mới, sao tán bột. Ngày uống 8-10g với nước sắc trần bì lúc đói.

Tiêu chảy ra nước (nhiệt tả): vỏ bầu 1 nắm sao vàng sắc uống.

Đầy bụng không tiêu: vỏ bầu khô hầm trong nồi kín cho thành than tán mịn. Mỗi lần lấy 1 thìa to uống với nước ấm. Cho vài lát gừng càng tốt.

Đái tháo đường: vỏ bầu già khô nấu nước hoặc nướng giòn tán bột để uống.

Phế nhiệt sinh ho: bầu 50g, đun nước uống thay trà trong ngày.

Rong huyết sau đẻ: vỏ bầu già khô (lấy mảnh vỡ cũng được) đập nát đốt thành than tán bột. Uống với nước.

Bệnh ngoài da (lở ngứa, rôm sẩy), phòng sởi đậu ở trẻ em: dùng tua cuốn dây bầu nấu với nước để tắm rửa.

Giải thai độc: dùng tua cuốn và hoa bầu nấu nước uống.

Bổ thận chữa đau lưng: hạt bầu nấu canh bầu dục lợn để ăn cái uống nước.

Viêm lợi miệng, tụt lợi, răng lung lay, sưng mộng răng: hạt bầu 30g, đun nước ngậm, súc miệng.

Sản phụ thiếu sữa: hạt bầu bỏ vỏ sao vàng 40g, đậu đỏ 100g, gạo nếp 100g, nấu cháo ăn hàng ngày. Có thể hầm cùng móng giò lợn.

BS. Phó Thuần Hương

Thiên hoa phấn trị viêm họng

Thiên hoa phấn là tên thuốc của rễ cây qua lâu. Cây qua lâu còn có tên khác là dưa trời, dưa núi, hoa bát, vương qua, dây bạc bát, người Tày gọi là thau ca. Qua lâu thuộc loại dây leo, có rễ củ thuôn dài như củ sắn, lá giống lá gấc, hoa đơn tính màu trắng, quả hình cầu, màu lục có sọc trắng, khi chín có màu đỏ.

Rễ qua lâu được thu hoạch vào mùa thu - đông, tốt nhất là sau khi thu hái quả được ít ngày. Rễ đào về, cạo bỏ vỏ ngoài, rửa sạch, cắt thành từng đoạn, rễ nhỏ để nguyên, rễ to bổ dọc, phơi hay sấy khô để làm thuốc.

Thiên hoa phấn.

Một số bài thuốc dùng thiên hoa phấn

Chữa viêm amidan mạn: Thiên hoa phấn 8g; sinh địa 16g; hoài sơn, huyền sâm, ngưu tất, mỗi vị 12g; sơn thù, trạch tả, đan bì, phục linh, tri mẫu, địa cốt bì, mỗi vị 8g; xạ can 6g. Sắc uống ngày 1 thang. Dùng 5-7 ngày.

Sốt nóng do viêm họng, miệng khô khát: Thiên hoa phấn 8g, rễ cây ké lớn đầu 8g, sắc với 200ml nước còn 50ml, uống 1 lần trong ngày.

Chữa ho do nhiệt: Thiên hoa phấn 30g, gạo tẻ 100g. Sắc thiên hoa phấn, bỏ bã lấy nước, cho gạo vào nước thuốc nấu cháo ăn trong ngày, có tác dụng thanh phế, chỉ khát, sinh tân dịch... chữa ho do nhiệt hiệu quả.

Hỗ trợ điều trị đái tháo đường: Thiên hoa phấn 8g; thục địa, hoài sơn, mỗi vị 20g; đơn bì, kỷ tử, thạch hộc, mỗi vị 12g; sơn thù, sa nhân mỗi vị 8g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống 10 ngày 1 liệu trình.

Hỗ trợ điều trị thấp khớp: Thiên hoa phấn, thổ phục linh, cốt toái bổ, kê huyết đằng, thạch cao, đơn sâm, sinh địa, rau má, uy linh tiên, hy thiêm, khương hoạt, độc hoạt, mỗi vị 12g; bạch chỉ 8g; cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống 10 ngày 1 liệu trình.

Phụ nữ mới sinh sữa không xuống: Thiên hoa phấn đốt tồn tính, tán nhỏ, ngày uống 16-20 viên đến khi sữa xuống. Hoặc: Thiên hoa phấn, sài hồ, đương quy, xuyên sơn giáp, mỗi vị 8g; bạch thược 12g; thanh bì, cát cánh, thông thảo, mỗi vị 6g. Sắc uống ngày 1 thang.

Lưu ý: Không dùng thiên hoa phấn cho người có tỳ vị hư yếu, tiêu chảy, phụ nữ có thai.

Bác sĩ Thu Vân

Bạch đậu khấu trị nôn, tiêu hóa kém

Bạch đậu khấu chứa tinh dầu (borneol, campho, eucalyptol, pinen, caryophyllen, terpinen, carvon, sabinen...). Vị cay, tính nhiệt; vào kinh phế, tỳ và vị, bạch đậu khấu có tác dụng hành khí, hoá thấp, kiện vị, ôn vị, chỉ ẩu. Chữa chứng thấp trở trung tiêu, thấp ôn, ẩu thổ.

Liều dùng: 4 - 8g. Dùng dạng thuốc bột có tác dụng tốt hơn, uống 2 - 4g. Sau đây là một số bài thuốc có bạch đậu khấu.

Hành khí, giảm đau:

Bài 1 - thuốc Ngũ cách khoan trung: bạch đậu khấu 6g, hậu phác 8g, quảng mộc hương 4g, cam thảo 4g. Sắc uống. Dùng khi tỳ vị bị tổn thương, ngực bụng đầy trướng, khó tiêu, đàm tích, khí đưa ngược lên, đau do khí trệ.

Bài 2: bạch truật 9g, chỉ xác 8g, mộc hương 4g, bán hạ 8g, đại phúc bì 6g, nam tinh 8g, cam thảo 8g, đinh hương 4g, thanh bì 8g, can khương 6g, mạch nha 6g, thảo quả 4g, gừng tươi 3-5 lát. Sắc uống. Chữa bụng ngực đầy trướng, muốn nôn, đờm đưa ngược lên, không muốn ăn.

Hoá thấp tiêu bĩ: dùng khi tức ngực khó chịu, rêu lưỡi bẩn nhờn do thượng tiêu thấp trọc uất, khí cơ trở trệ.

Bài 1 - thang Tam nhân: bạch đậu khấu 6g, hạnh nhân 12g, ý dĩ nhân 20g, hậu phác 8g, hoạt thạch 16g, trúc diệp 12g, bán hạ 12g, thông thảo 8g. Sắc uống. Trị bệnh thấp ôn, tức ngực khó chịu, rêu lưỡi bẩn nhờn.

Bài 2 - Phổ tế tiêu độc ẩm: bạch đậu khấu 8g, hoạt thạch 24g, hoàng cầm 20g, mộc thông 10g, xạ can 8g, bạc hà 8g, hoắc hương 8g, nhân trần 20g, thạch xương bồ 12g, bối mẫu 10g, liên kiều 8g. Tán bột làm hoàn. Ngày dùng 2 lần, mỗi lần 10 - 12g. Tác dụng thanh nhiệt hóa thấp, tuyên thông khí cơ, giải độc. Chữa thấp nhiệt gây sốt nhẹ, tiểu tiện đỏ và sẻn, ngực tức, chân tay rã rời hoặc đại tiện nhão mà không thông sướng.

Ấm dạ dày, chống nôn: Dùng khi tỳ vị hư hàn, tiêu hoá không tốt, buồn nôn, nôn, ợ hơi đưa ngược lên.

Đậu khấu 20g, nghiền thành bột, thêm 1 thìa nước gừng sống làm hoàn. Mỗi lần uống 1 - 4g, chiêu với nước đun sôi. Trị dạ dày lạnh, nôn.

Bạch đậu khấu 12g, bán hạ 10g, quất bì 8g, bạch truật 10g, phục linh 10g, gừng sống 3 - 5 lát. Sắc uống. Trị đờm lạnh tích ở dạ dày gây nôn mửa.

Thang Bạch đậu khấu: bạch đậu khấu 6g, hoắc hương 12g, trần bì 6g, gừng sống 8g. Sắc uống. Trị nôn oẹ.

Bạch đậu khấu bột 4g, hãm với nước. Thuốc có tác dụng giải độc rượu, dùng cho người say rượu không tỉnh.

Kiêng kỵ: Người nhiệt, nôn, đau bụng không được uống.

Quả của một số cây khác cũng có tên đậu khấu:

Tiểu đậu khấu (Elettaria cardamomum Maton.).

Thổ đậu khấu (Alpinia sp.).

Thảo đậu khấu (Alpinia katsumadai Hayt.), cùng họ (Zingiberaceae).

Các loại quả này cũng được dùng như bạch đậu khấu; cần lưu ý khi dùng.

BS. Tiểu Lan

Khiếm thực

Mặt ngoài đã bỏ vỏ nhẵn màu trắng xám, mặt cắt ngang màu trắng ngà có tinh bột, không mùi, vị nhạt, đem phơi hoặc sấy khô, sao vàng , bảo quản dùng dần.

Theo Đông y, khiếm thực tính bình, vị ngọt, chát, có công dụng bổ tỳ, ích thận, cố tinh, được dùng làm thuốc bổ an thần, thuốc cho người cao tuổi, thân yếu, lưng đau, mắc chứng tiểu đêm. Khiếm thực phối hợp với các vị thuốc khác chữa mộng tinh, di tinh, hoạt tinh...Theo y học hiện đại, khiếm thực hàm chứa nhiều béo, chất bột, đường và các nguyên tố vi lượng có tác dụng bổ dưỡng, nâng cao sức khỏe.

Chữa viêm phế quản mạn tính, người già hư suyễn: Khiếm thực 50g, táo nhân 10g, cùi hồ đào 10g, gạo tẻ 100g. Khiếm thực đập dập, hồ đào nghiền cả vỏ. Các vị trên cho vào nấu cháo như bình thường, thêm đường phèn vừa đủ. Chia ăn ngày 2 lần.

Chữa thận hư, khí nhược, tiểu tiện đục: Khiếm thực 15g, phục linh 10g, gạo tẻ vừa đủ. Khiếm thực, phục linh giã nát, sắc trước với nước cho mềm, cho gạo vào nấu cháo. Ăn liền trong 5-7 ngày.

Chữa di mông tinh, mất ngủ: khiếm thực 10g, hạt sen 40g, phục thần 20g. Các vị đun nhỏ lửa cho mềm, thêm đường, bỏ bã phục thần, ăn hạt sen, khiếm thực, uống nước.

Chữa thận hư, di tinh, đái dầm, tỳ hư, đại tiện lỏng: khiếm thực 20g, hạt kim anh 15g, gạo lứt 100g, đường phèn vừa đủ. Hạt kim anh bỏ nhân cùng khiếm thực sắc lấy nước bỏ bã, cho gạo lứt vào nấu cháo, cháo chín, thêm đường vừa đủ, ăn trong ngày.

Chữa khí hư, thận hư, di tinh, tiểu không tự chủ: khiếm thực 30g, ngân hạnh 10g, gạo nếp 30g. Nấu cháo ngày 1 lần. 7-10 ngày là 1 liệu trình.

Chữa chứng tiểu đêm, lưng đau, gối mỏi, tỳ hư, ăn uống kém: khiếm thực sao vàng, tán bột mịn, ngày 2 lần, mỗi lần 8g, uống với nước sắc phá cố chỉ, ích trí nhân mỗi vị 6g.

Chữa thần kinh suy nhược, viêm ruột mạn tính: khiếm thực và kim anh tử hai vị bằng nhau, tán nhỏ, thêm mật hoàn viên. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 4 g.

Chữa các chứng tỳ hư bất vận, tiêu chảy lâu ngày không dứt, ăn uống kém, thiếu lực, cơ thể mệt mỏi: khiếm thực 30g, biển đậu 30g, liên nhục 30g, phục linh 30g, bạch truật 30g, sơn dược 30g, nhân sâm 8g, hạt ý dĩ 30g. Các vị trên tán bột mịn, ngày uống 2-3 lần pha với nước sôi, thêm đường cho dễ uống, mỗi lần 6g.

DS. Nguyễn Thị Hồng

Ba đậu trị táo bón, báng nước

Ba đậu còn gọi giang tử, mãnh tử nhân, lão dương tử, mắc vát, ba nhân. Ba đậu là hạt chín già khô của cây ba đậu (Croton tiglium L.), thuộc họ thầu dầu (Euphorbiceae). Ba đậu chứa dầu, chất protien, glucozid (crotonozit), albuminoza (crotin) rất độc, có alcaloid độc gần giống rixinin trong hạt thầu dầu…

Theo Đông y, ba đậu vị cay, tính nhiệt, độc nhiều; vào kinh vị và đại tràng.

Có tác dụng ôn thông hàn tích, tháo nước, tiêu thũng; chỉ tả sát trùng. Chữa các chứng táo bón do hàn tích, bụng nước cổ trướng, đàm tắc hầu tý, phế ung, tiêu chảy kéo dài do hàn, chàm ghẻ lở loét (ác sang giới tiên), ung nhọt sưng.

Liều dùng: 0,16g - 0,47g.

Chú ý: Ba đậu thuộc nhóm thuốc độc bảng A, nên khi chế biến và sử dụng, cần thực hiện đúng quy chế thuốc độc của Bộ Y tế. Cách chế ba đậu trong “Phương pháp bào chế Đông dược - Viện Đông y Trung ương”: Bỏ vỏ, giã cho nhỏ, bọc giấy bản, ép, thay giấy bản, lại ép đến khi nào dầu không thấm ra nữa thì thôi, sao qua cho vàng (ba đậu sương); liều dùng 0,02g - 0,05g/ngày. Loại ép hết dầu rồi sao đen, gọi là “hắc ba đậu”; liều dùng có thể đến 1g/ngày.

Ba đậu trị táo bón, báng nướcBa đậu (hạt chín già khô của cây ba đậu) là vị thuốc trị táo bón, thủy thũng, viêm niêm mạc dạ dày, đau bụng…

Nếu uống ba đậu vẫn không đại tiện được thì ăn thêm cháo loãng nóng. Nếu đại tiện mãi không thôi thì ăn cháo loãng nguội. Nếu ngộ độc, dùng hoàng liên, đỗ xanh đun sắc uống để giải độc.

Một số bài thuốc trị bệnh có ba đậu:

Ôn trường, thông tiện: Dùng khi tỳ hàn không vận, thức ăn tích trệ không tiêu, bí đại tiện. Dùng bài Hoàn tam vật bị cấp: ba đậu (bỏ vỏ và dầu), gừng khô, đại hoàng, liều lượng bằng nhau. Các vị nghiền chung thành bột, luyện với mật làm hoàn. Mỗi lần uống 0,8g - 1,2g, chiêu với nước đun sôi. Trị hàn tích táo bón, ngực bụng trướng đau, thổ gấp, cấm khẩu, đột nhiên ngã lăn quay.

Tháo nước tiêu thũng: Dùng khi bụng thuỷ thũng.

Bài 1: ba đậu, hạnh nhân, liều lượng bằng nhau, làm thành hoàn. Mỗi lần uống 0,4g - 0,8g, chiêu với nước đun sôi. Trị thuỷ thũng. Lưu ý trong khi dùng thuốc không được uống rượu.

Bài 2 - Hoàn ba giáng: ba đậu 12g (bỏ dầu), giáng phàn 63g. Hai vị làm thành hoàn. Mỗi lần uống 1g - 2g, ngày 1 lần. Trị bệnh sán máng (Schistosomiase) thời kỳ cuối, bụng có nước.

Trị viêm niêm mạc dạ dày, đau bụng:

Bài 1: ba đậu sương 1g, cát cánh 3g, bối mẫu 3g. Tán bột trộn đều. Mỗi lần uống 0,2g với nước ấm.

Bài 2: ba đậu sương 0,5g, nhục quế 3g, trầm hương 2g, đinh hương 3g. Tán bột. Mỗi lần uống 0,5 - 1g với nước ấm.

Kiêng kỵ: Vị này cay nhiệt, rất háo, có độc; người thể hư, phụ nữ có thai không được uống. Ba đậu sợ khiên ngưu.

TS. Nguyễn Đức Quang

Trị ho do lạnh, ngủ không yên với cây hồ đào

Theo y học cổ truyền, nhân hồ đào vị ngọt, tính ấm, bổ thận, cố tinh, nhuận phế, định suyễn, nhuận tràng, trị thận hư ho suyễn, eo lưng đau, chân yếu, dương nuy, di tinh, đại tiện táo, bí tiểu luôn. Vỏ cách vị đắng, tính bình, bổ thận, sáp tinh, trị thận hư di tinh, hoạt tinh, đái dầm. Vỏ ngoài quả và cành lá vị đắng, tính bình, trị sưng hết ngứa sần, ngứa da trâu (ngưu bì tiên), ghẻ ngứa.

Cây hồ đào ta gọi là cây óc chó, có tên trong vị thuốc Đông y gọi hồ đào nhục, hạch đào. Cây được trồng ở một số vùng biên giới như Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng. Là loại cây sống lâu năm, có thể cao tới 20m, lá kép lông chim lẻ, thường có từ 7 - 9 lá chét, mép nguyên, không cuống, hình trứng thuôn, khi vò ra có mùi hăng đặc biệt. Hoa đơn tính cùng gốc họp thành đuôi sóc. Quả hạch, bọc trong một lớp vỏ nạc, khi chín không nứt, hạch rất cứng màu vàng, trong có chứa hạt rất nhiều dầu. Bộ phận dùng: nhân, vỏ ngoài quả, lá cành, hạt.

Nếu dùng lá thì hái suốt mùa hè, tốt nhất vào tháng 6 - 7, chọn lá xanh phơi khô có màu lục, mùi thơm và đắng chát. Dùng nhân thì thu hái vào tháng 9 - 10, hái quả chín về bọc lấy vỏ ngoài phơi khô dùng. Hạch gồm nhân và vỏ cứng, phơi khô gọi hồ đào, hạch đào, lấy quả hạch, đập lấy nhân phơi khô gọi hồ đào nhân.

Cây và quả hồ đào.

Một số bài thuốc thường dùng

Bổ huyết, mạnh gân cốt, nhuận cơ thể: Hồ đào nhục 160g, bột bổ cốt chỉ 160g, đỗ trọng 160g, tỳ giải 160g. Tán nhỏ hoàn viên bằng hạt ngô. Mỗi lần uống 20 viên lúc đói với nước đun sôi để nguội, dùng 15 ngày một liệu trình.

Tác dụng chắc răng, đen tóc: Hồ đào nhân sao qua, xuyên bối mẫu mỗi vị 160g. Tán nhỏ dùng hằng ngày 10g với nước ấm, dùng liền 2 tuần.

Bổ thận: Hồ đào cả vỏ 30 quả, thanh diêm 40g, bổ cốt chỉ, đỗ trọng mỗi vị 160g đem tẩm rượu sao, tỏi to 160g trộn nước gừng sao qua. Tất cả nghiền nhỏ rồi nhào thành cao cho ít mật viên như quả táo ta. Ngày uống 1 viên vào lúc đói với nước muối nhạt.15 ngày 1 liệu trình .

Trị cảm phong hàn người nóng không mồ hôi, đau đầu: Hồ đào nhục, trà búp, hành, gừng sống, mỗi vị 15g giã dập. Tất cả cho vào ấm đổ 500ml nước, sắc nhỏ lửa còn 250ml nước nước uống, đắp chăn ra mồ hôi là khỏi.

Trị ho do lạnh, ngủ không yên: Hồ đào nhục bỏ vỏ 40g, gừng sống 40g, hạnh nhân (bỏ vỏ, đầu nhọn) 40g. Nấu cô thành cao cho mật ong hoàn viên như quả táo ta. Mỗi lần nhai 1 viên, uống với nước gừng.

Trị đái buốt, đái rắt do nóng: Hồ đào nhục 100g, gạo 100g. Gạo tẻ ngâm cho nở đem nấu cháo ăn, ăn liên tục từ 5-7 ngày.

Do cơ địa khác nhau nên các vị thuốc có thể gia giảm cho phù hợp vì vậy khi áp dụng cần có sự tư vấn của thầy thuốc.

Bác sĩ Trần Thị Hải

Hồng đằng khử phong thông kinh lạc

Hỏi: Cây thuốc hồng đằng thường có ở đâu? Cây có công dụng gì?

(Trần Văn Quý - Đà Nẵng)

Trả lời: Hồng đằng còn gọi là thuyết đằng, đại hoạt đằng, hoạt huyết đằng, kê huyết đằng, đại huyết đằng, dây máu người.

Tên khoa học Sargentodoxa cuneata (Oliv.) Rehd. et Wils (Holboellia cuneata Oliv.).

Thuộc họ Huyết đằng Sargentodoxceae.

Tên huyết đằng vì thân cây cắt ra có chất nhựa màu đỏ như máu (huyết là máu, đằng là dây), kê huyết đằng là dây máu gà.

Mô tả cây

Cây huyết đằng (Sargentodoxa cuneata) là một loại dây leo, thân có thể dài tới 10m, vỏ ngoài màu hơi nâu. Lá mọc so le, kép, gồm 3 lá chét, cuống lá dài 4,5 - 10cm, lá chét giữa có cuống ngắn, lá chét hai bên gần như không cuống. Phiến lá chét giữa hình trứng, lá chét hai bên hình thận, dài 7 - 11cm, rộng 3,5 - 6,5cm. Mặt trên màu xanh, mặt dưới màu xanh nhạt. Hoa đơn tính, khác gốc, mọc thành chùm ở kẽ lá, cụm hoa dài tới 14cm, mọc thõng xuống. Hoa đực màu vàng xanh, 6 lá đài, 6 cánh tràng thoái hóa thành hình sợi, 6 nhị. Hoa cái gần như hoa đực, nhiều lá noãn, bầu thượng. Quả mọng hình trứng dài 8 -10mm, khi chín có màu lam đen. Mùa hoa vào các tháng 3 - 4, mùa quả vào các tháng 7 - 8.

Cây kê huyết đằng (Milletia nitida Benth.) cũng là một loại dây leo, lá mọc so le, kép, thường gồm 5 lá chét, cuống lá dài chừng 3 - 5mm, phiến lá chét dài 4 - 9cm, rộng 2 - 4cm, lá chét giữa dài và to hơn các lá chét bên. Gân chính và gân phụ đều nổi rõ ở cả 2 mặt. Cụm hoa thành chùm mọc ở đầu cành hay ở kẽ các lá đầu cành, cụm hoa dài chừng 14cm. Trục cụm hoa có lông mịn, hoa màu tím, đài hình chuông, tràng hoa hình cánh bướm. Quả giáp dài 7 -15cm rộng 1,5 - 2cm, đầu quả hẹp lại và thường thành hình mỏ chim, trên mặt có phủ lông mịn màu vàng nhạt. Hạt 3 - 5, đường kính ước 12mm, màu đen nâu. Mùa hoa vào các tháng 9 đến tháng 1 năm sau.

Cây kế huyết đằng (Milletia dialsiana Harms). Cũng gần như cây trên, hoa màu hồng.

Phân bố, thu hái và chế biến

Những cây cho vị huyết đằng và kê huyết đằng ở Việt Nam hiện chưa được xác định chắc chắn thuộc vào mấy loài. Nhân dân chỉ mới căn cứ vào khi chặt thân cây có những đám nhựa màu đỏ giống như máu mà lấy về dùng

Những cây này được khai thác nhiều nhất tại các tỉnh Hòa Bình, Hà Tây, Cao Bằng, Lạng Sơn, còn thấy nhiều tỉnh miền núi khác nhưng ít được khai thác.

Huyết đằng và kê huyết đằng có thể thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào các tháng 9 -10 chặt toàn cây về phơi khô, cắt bỏ lá cành, có nơi cắt thành từng đoạn ngắn hay miếng mỏng rồi mới phơi hay sấy khô.

Công dụng và liều dùng

Huyết đằng còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi nhân dân. Nó được dùng từ lâu đời.

Đông y coi vị huyết đằng có vị đắng, tính bình có khả năng khử phong thông kinh lạc, đau bụng giun. Ngày dùng 12g - 40g dưới dạng thuốc sắc.

Kê huyết đằng có vị đắng tính ôn, có tác dụng bổ huyết, thông kinh lạc, khỏe gân cốt, dùng chữa đau lưng, đau mình, kinh nguyệt không đều. Ngày dùng 6 -12g dưới hình thức thuốc sắc hay ngâm rượu.

GS. ĐỖ TẤT LỢI

((Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam))

Cách dùng bưởi chữa ho, đau đầu

Các thành phần của cây bưởi còn được dùng làm thuốc trong y học cổ truyền. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, bưởi có tác dụng chống viêm rõ rệt thông qua cơ chế cải thiện mạng lưới vi tuần hoàn tại chỗ, ức chế quá trình ngưng kết tập tiểu cầu, chống phù nề, nâng cao sức bền thành mạch và sức chống đỡ của cơ thể với các tác nhân gây bệnh. Có tác giả cho rằng, dịch ép quả bưởi còn có chứa một chất giống như insulin có khả năng làm hạ đường máu.

Theo dược học cổ truyền, lá bưởi có vị cay, tính ấm, được dùng để chữa các chứng đau đầu do phong tà, viêm khớp dạng thấp thể hàn thấp, đau bụng do thực trệ. Cùi bưởi vị cay ngọt đắng, tính ấm, vào ba kinh tỳ, thận và bàng quang, có công dụng hóa đàm, tiêu thực, hạ khí và làm khoan khoái lồng ngực. Sách Bản thảo cương mục khuyên nên dùng lá bưởi và hành củ giã nát đắp vào huyệt thái dương (ở sau đuôi mắt 1 tấc, mỗi bên 1 huyệt) để trị chứng đau đầu do phong, lá bưởi và gừng tươi giã nát rồi trộn với một chút dầu trẩu đắp tại chỗ để điều trị viêm khớp cấp. Tinh dầu bưởi còn có tác dụng giải rượu và bôi lên các vùng tóc rụng để kích thích mọc tóc.

Cùi bưởi trắng chữa ho, trị đau bụng, ruột bưởi (múi) chữa nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt.

Cùi bưởi trắng chữa ho, trị đau bụng, ruột bưởi (múi) chữa nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt.

Dưới đây là một số bài thuốc thường dùng:

Chứng ho hen ở người già: cùi 1 quả bưởi, cạo bỏ phần trắng rồi thái vụn, cho vào bát cùng với một lượng vừa đủ kẹo mạch nha hoặc mật ong, hấp cách thủy cho nhừ, mỗi ngày ăn 2 lần, mỗi lần 1 thìa; hoặc cùi 1 quả bưởi rửa sạch thái chỉ, hãm với nước sôi uống thay trà trong ngày; hoặc ăn cùi bưởi thái vụn chưng với dầu hạt hoa mào gà.

Trị đầu đau nặng như đeo đá, buồn nôn, hoa mắt chóng mặt, lưỡi bệu, rêu lưỡi dày trắng và dính: múi bưởi 500g, mật ong 350g, đường trắng vừa đủ. Múi bưởi, ướp với đường trắng 1 đêm, hôm sau đổ vào nồi chưng kỹ rồi cho mật ong vào quấy đều, bắc ra để nguội rồi đựng trong bình kín để dùng dần, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 3g.

Trị đau bụng do lạnh: cùi bưởi 2 phần, trà 4 phần, thanh đằng hương 2 phần, tất cả đem sấy khô, tán bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 6g; hoặc dùng bài: cùi bưởi 12g sắc với 300ml nước còn 100ml, chia uống vài lần trong ngày.

Trị áp-xe vú: lá bưởi 15g, thanh bì 30g, bồ công anh 30g, sắc uống hàng ngày.

Thức ăn đình trệ, chậm tiêu: cùi bưởi, sa nhân, kê nội kim và thần khúc, lượng bằng nhau từ 4-6g, sắc uống.

Trị sán khí: cùi bưởi khô sao vàng 10g, sắc uống hàng ngày. Hoặc hạt bưởi 6-9g, sắc uống.

Phụ nữ mang thai nôn nhiều: cùi bưởi 4-12g, sắc uống.

Trị viêm loét ngoài da: cùi bưởi tươi lượng vừa đủ sắc lấy nước ngâm rửa.

Chữa các chứng đau dạ dày, đau tức ngực: hoa bưởi 2-4g, sắc uống, có tác dụng hành khí, tiêu đờm, giảm đau.

Trị đau đầu: ăn bưởi (múi bưởi tươi) đồng thời dùng lá bưởi và hành củ giã nát đắp lên huyệt thái dương.

Chữa chốc đầu: hạt bưởi bóc vỏ cứng rồi đốt cháy thành than, nghiền nhỏ rồi rắc lên vùng tổn thương, mỗi ngày 2 lần, liên tục trong 6 ngày.

DS. Khánh Mai